XEM LÁ SỐ
Năm sinh:
Tháng sinh:
Ngày sinh:
Giờ sinh:
LƯỢT TRUY CẬP
Thành viên đang online
:
Tổng truy cập
:

SỬA CHỮA NHÀ - CÁCH XÉT CÁT HUNG

SỬA CHỮA NHÀ - CÁCH XÉT CÁT HUNG

Phàm tu phương, trước định trung cung (giữa nhà) hạ La kinh ở trung cung (đặt các địa bàn xuống giữa nhà), định phương sửa chữa, thuộc ngôi chữ gì, trước tra ngôi chữ ấy, xem năm nào có thể sửa được, rồi tra tháng nào có thể sửa được, rồi sau chọn ngày cùng với phương sinh vượng thì cát.

Phương tất cũng có thể sửa được, như phương Mậu Kỷ về năm định sửa, phương Tuế phá, Thái tuế và chồng chất, Mậu, Kỷ, Đả đầu hỏa, Kim thần phương. Nguyệt gia thì Đại nguyệt kiến, Tiểu Nhi sát phương, đó là tất nhiên không thể sửa được. Đến Nguyệt gia Bính, Đinh hỏa, với lại phi cung Đả đầu hỏa, Thiên địa quan phù là xấu hạng thứ, có chế thì sửa được.

Xét Mậu Kỷ chiếm phương, có thể chế mà sửa được, nhưng nên chế đúng phép, như Thu Thiên sư sửa Tháp Thạch Long văn, tháp ấy ở phương Dậu, tọa Canh kiêm Thân, dùng năm Đinh Tị, tháng Ất Tị, ngày Bính Thân, giờ Bính Thân; dự bói một kỷ (12 năm) phát đỗ to liền liền.

Có kẻ hỏi rằng: Mậu Kỷ đại sát tới Dậu, sửa sợ không lợi. Sư đáp: Mậu Kỷ tuy chiếm ở Dậu, mừng được Tuế Quý tới phương, mà trong khóa có Tam Kỳ Quý nhân tới Dậu, đó là cách Quý, sửa song tất ứng nghiệm. Hoặc lại nói: sao không phát ngay? Mà để tới 1 kỷ mới phát?

Sư đáp: Nhà tuyển trạch đời nay, động làm là lấy Mậu kỷ làm Thổ sát mà dùng Mộc chế, họ không biết Mậu kỷ giao vào Mão thì là Mộc, gia vào Ngọ Mùi thì là Hỏa, đây Mậu Kỷ giao vào Dậu thì là Kim sát, cho nên dùng Bính Đinh để chế, đó là Quý nhân cũng chịu chế đấy, cho nên phát chậm. Đến Ấn khoa, khoa thi Mậu Thìn, Quả nhiên phát 2 người đỗ đầu võ văn, một người thủ khoa về võ, đến khoa Kỷ Tị đỗ võ liền báo tin mừng. Đó là nghiệm về chế sát tu phương.

Ngu này xem kỹ khóa này, xét năm có khoa thi, ứng vào năm Mậu Thìn, Thìn hợp với Dậu, hợp động Quý nhân. Mậu thổ lại sinh Dậu kim, Quý nhân được sinh vậy. Năm Kỷ Tị, là Tị Dậu hội hợp. Vả lại gặp Thất Xích Kim quản sự ở Hạ nguyên, Quý nhân được nhân vượng, sao lại không phát? (Khi sửa tháp là Trung nguyên Lục Bạch chủ sự, đó là khí vận, không nên không xét).

Lý thị nói: Mậu Kỷ chiếm phương, thì dùng Niên gia nạp âm để khắc Mậu Kỷ phương Nạp âm, nhưng việc sửa nhỏ thì dùng được, việc sửa lớn thì không nên. Tam sát phương cũng không nên phạm, nhưng có chế thì sửa được, nhưng tất phải như Tăng Công làm cho Trần thị sinh mệnh (tuổi người sống) Nhâm Thân, dùng năm Giáp Thân, tháng Mậu Thìn, ngày Nhâm Tý, giờ Canh Tý, là Tam hợp Thủy cục để sửa Ngọ, Mùi Tam sát phương là được, nếu không như thế, không nên khinh thường, thử làm.

Lưu thị nói: năm Thân Tý Thìn sửa phương Nam, phương Tỵ Ngọ Mùi rất kỵ dùng tháng, ngày giờ Thân Tý Thìn là hợp tuổi đã giúp sát vậy. Nên dùng cục Tị Dậu Sửu để sửa phương Tị; cục Hợi Mão Mùi để sửa phương Mùi, cục Dần Ngọ Tuất để sửa phương Ngọ, tháng ngày giờ thì bổ cho Nguyên khí, thì chỉ năm Tý thôi, sao bay hợi với cục Thủy để sát lại Hỏa. Phép này có thể tu sơn, cũng có thể khai sơn, lấy Tam hợp phù sơn, hóa sát làm quyền vậy.

Như dùng cục Thân Tý Thìn để chế Hỏa sát phương Nam, phép ấy có thể tu phương, không nên tu sơn, vì sơn nên bổ, không nên khắc, phương có thể khắc mà tu vậy, cho nên nói rằng: “chế sát tu phương, lại tiến điền tốt lành”.

Hoặc xét Tam sát, là phương Thái tuế Tam hợp sở sát cho nên hướng thì được, tọa thì không được. Như Lưu thị nói, năm Thân Tý Thìn: sửa phương Tị thì dùng cục Tị Dậu Sửu, sửa phương Ngọ thì dùng cục Dần Ngọ Tuất, sửa phương Mùi thì dùng cục Hợi Mão Mùi, đó là sát tụ tập đảng, nó cùng với Thái tuế chống chọi nhau, thì Thái tuế há có thể để ra ngoài vòng mà không gia lấy tội ư? Này sửa Tam sát phương, tất như phép chế của Tào Công mới tốt lành.

Đến như Tam sát ở sơn thì khai sơn tu đơn đều không nên, cho nên nói rằng: hướng thì được, tọa thì không được. Đó là lời bàn không thể đổi được. Lưu thị biết bổ tọa sơn, cho nên nhầm lấy Tam sát tại sơn, mà bèn dùng hội họp sát đảng làm bổ sơn, nói phép ấy có thể tu sơn, cũng có thể khai sơn, sao mà nhầm quá lắm thế.

 

Phương có thể sửa được là có 3 điểm:

1/ Không lợi phương, trong năm sửa không có nhiều đại hung sát, chiếm phương cũng không có lắm cát thần tới phương, chỉ cần chọn ngày tốt để sửa, cũng được bình ổn.

2/ Tu cát thần phương, hoặc Thái tuế đến phương mà có đèo sao cát chứ không đèo sao hung (nên Bát tiết Tam kỳ cùng đến) hoặc Tam đức phương (năm Giáp thì Thiên đức, Nguyệt đức, Tuế đức, tháng 6 cùng ở sơn phương), Niên Thiên hỷ phương (năm Tý, Dậu, Sửu, Thân, lần lượt tính nghịch là đúng).

Thứ thì niên nguyệt Tam thai thổ khắc phương (vị chữ Khai), Thanh long Quan quốc phương (vị chữ khai), Cực phú Cốc tướng phương (vị chữ Nguy), Khôi cương Niên tinh phương (vị chữ Định), Nguyệt gia kim quỹ phương (vị Tam hợp Đế vượng tức là Đả đầu Hỏa, được Thiên hỷ cùng đến: rất tốt. Nhưng tu Niên Kim quỹ không bằng tu Nguyệt Kim quỹ ổn hơn). Bản niên Quý nhân Lộc Mã phương, đó đều là cát phương của Niêng Nguyệt vậy. Lại hoặc bản mệnh Quý nhân Lộc Mã ở phương phi đến (lấy Thái tuế đem vào trung cung tính thuận), lại hoặc bản mệnh Quý nhân Lộc Mã phương, bản mệnh Thực lộc phương (như mệnh dùng làm, lấy Bính làm Thực Lộc, Bính thì Lộc ở Tị, sửa Tị phương …) ba phương này là bản mệnh cát phương, tức niên nguyệt cát, mới hợp với cát phương bản mệnh, rồi sau chọn ngày cát sửa, thì không gì là không cát. Phép chọn ngày cát như thế nào?

Vì phương cát nên giúp vào, không nên khắc, phù vào thì phúc lớn, khắc thì vô phúc. Niên gia cùng với phương ấy, hoặc cục Tam hợp hoặc cục Nhất khí lại tất phương ấy được tháng vượng tướng, thì các cát chủ quyền sửa được, tự nhiên phát phúc, song sửa phương cát tất không cần khẩn lắm, chỉ thần sát là được. Vì cát không nên khắc mà sát lại cần khắc, hai việc này không thể cùng làm đôi. Nếu không phải là sát khẩn yếu, thì bất tất bàn, phương cát mệnh cát, tự nhiên  hàng phục được.

3/ Sửa phương hung sát, trừ Tuế phá, Mậu Kỷ với lại Thái tuế chồng chất hung tinh, không thể sửa được, còn những sao khác có thể chế mà sửa. Phép chế nói rõ trong thiên chế sát ở sau. Phàm sao sát nên chế, chỉ có Chá thoái là nên bổ, còn hung sát khác, hoặc lấy Tứ trụ mà khắc, hoặc đợi tháng hưu tù, lại lấy Thái dương, Thái âm, Tam kỳ, Tử, Bạch chiếu vào, Mệnh Quý nhân Lộc Mã tới là phúc lớn.

Nguồn: Tuyển trạch

 

 

THAM KHẢO BÀI VIẾT HAY   

1. 30 NGUYÊN TẮC CHÍNH YẾU TRONG DƯƠNG TRẠCH - P1  

2. 30 NGUYÊN TẮC CHÍNH YẾU TRONG DƯƠNG TRẠCH - P2  

3. PHƯƠNG PHÁP SINH CON THEO Ý MUỐN  

4. KHÓA HỌC PHONG THỦY HUYỀN KHÔNG PHI TINH  

5. XEM TUỔI LÀM NHÀ CHUẨN PHONG THỦY